Đá tự nhiên – Đá biến chất

Namstone.vn – Đá biến chất được hình thành từ sự biến tính của đá mácma, đá trầm tích, thậm chí cả từ đá biến chất có trước, do sự tác động của nhiệt độ, áp suất cao (nhiệt độ lớn hơn 150 đến 200 °C và áp suất khoảng trên 1500 bar) và các chất có hoạt tính hoá học, gọi là quá trình biến chất.

Lịch sử hình thành đá biến chất

Các chất có hoạt tính hoá học thường gặp nhất là nước và axit cacbonic thường xuyên có trong tất cả các loại đất, đá. Tính chất của đá biến chất do tình trạng biến chất và thành phần của đá trước khi bị biến chất. Dưới sự tác động của các tác nhân biến chất, các thành phần của đá có thể tái kết tinh ở trạng thái rắn và sắp xếp lại. Tác dụng biến chất không những có thể cải biến cấu trúc của đá mà còn làm thay đổi thành phần khoáng vật của nó.

Trong quá trình biến chất do tác động của áp lực và sự tập hợp nhiều loại kết tinh nên đá biến chất thường rắn chắc hơn đá trầm tích; nhưng đá biến chất từ đá mácma thì do cấu tạo dạng phiến mà tính chất cơ học của nó kém đá mácma.

Các đá biến chất chiếm phần lớn trong lớp vỏ của Trái Đất và được phân loại dựa trên cấu tạo, và thành phần hóa học và khoáng vật hay còn gọi là tướng biến chất. Chúng có thể được tạo ra dưới sâu trong lòng đất bởi nhiệt độ và áp suất cao hoặc được tạo ra từ các quá trình kiến tạo mảng như va chạm giữa các lục địa, và cũng được tạo ra khi khối mác ma có nhiệt độ cao xâm nhập lên lớp vỏ của Trái Đất làm các đá có trước bị biến đổi.

Lưu ý quan trọng: Đây là những kiến thức cơ bản về Đá tự nhiên được xây dựng bởi những con người ở Namstone dày công tâm huyết tổng hợp để gửi tới các bạn đọc, các khách hàng muốn tìm hiểu và sử dụng đá tự nhiên trong cuộc sống hàng ngày trong gia đình mình hay trong những nơi mình làm việc.

Khoáng vật trong đá biến chất

Các khoáng vật tạo đá biến chất chủ yếu là những khoáng vật nằm trong đá mácma, đá trầm tích và cũng có thể là các khoáng vật đặc biệt chỉ có ở trong các loại đá biến chất dưới sâu như sillimanit, kyanit, staurolit, andalusit, và granat

Các khoáng vật khác cũng được tìm thấy như olivin, pyroxen, amphibol, mica, fenspat, và thạch anh nhưng không nhất thiết là kết quả của quá trình biến chất. Các khoáng vật này bền vững ở điều kiện nhiệt độ và áp suất cao nên chúng ít bị biến đổi hóa học trong quá trình biến chất. Tuy nhiên, các khoáng vật trên chỉ không bị biến đổi trong một giới hạn nhất định, sự có mặt của một số koáng vật trong đá biến chất phản ánh nhiệt độ và áp suất hình thành chúng.

Sự thay đổi kích thước hạt của đá trong quá trình biến chất được gọi là quá trình tái kết tinh. Ví dụ, các tinh thể canxít trong đá vôi kết tinh thành các hạt lớn hơn trong đá hoa, hay cát kết bị biến chất sự kết tinh của các hạt thạch anh ban đầu tạo thành đá quartzit rất chặt thường gồm các tinh thể thạch anh lớn hơn đan xen vào nhau. Cả hai yếu tố là nhiệt độ và áp suất cao đều tạo ra sự tái kết tinh. Nhiệt độ cao cho phép các nguyên tử và ion di chuyển và làm sắp xếp lại các tinh thể, còn áp suất làm cho các tinh thể hòa tan tại các vị trí chúng tiếp xúc nhau.

Phần lớn đá biến chất (trừ đá hoa và đá quartzit) là quá nửa khoáng vật của nó có cấu tạo dạng phiến gồm các lớp song song nhau, dễ tách thành những phiến mỏng.

Cấu tạo đá biến chất

Sự hình thành các lớp nằm trong các đá biến chất được gọi là sự phân phiến. Các lớp này được hình thành do lực nén ép theo một trục trong quá trình tái kết tinh, và đồng thời tạo ra các khoáng vật kết tinh dạng tấm như mica, clorit có mặt phẳng vuông góc với lực tác dụng. Cấu tạo của đá biến chất được chia thành hai loại là cấu tạo phân phiến và cấu tạo không phân phiến.

Đá có cấu tạo phân phiến là sản phẩm của sự biến dạng đá có trước theo một mặt phẳng, đôi khi tạo ra các mặt cát khai của khoáng vật: ví dụ slat là đá biến chất có cấu tạo phân phiến từ đá phiến sét.

Đá có cấu tạo không phân phiến không có hoa văn (dải) theo từng lớp và được hình thành do ứng suất tác dụng từ nhiều phía hoặc không có các khoáng vật phát triển đặc biệt như phyllit có hạt thô, diệp thạch có hạt thô hơn, gơnai hạt rất thô, và đá hoa.

Một vài loại đá biến chất

Cấu tạo phân phiến bị uốn nếp trong đá biến chất gần Geirangerfjord, Na Uy
Cấu tạo phân phiến bị uốn nếp trong đá biến chất gần Geirangerfjord, Na Uy
  • Đá gơnai(gneiss) hay đá phiến ma: đá gơnai là do đá granit (đá hoa cương)tái kết tinh và biến chất dưới tác dụng của áp lực cao thuộc loại biến chất khu vực, tinh thể hạt thô, cấu tạo dạng lớp hay phân phiến – trong đó những khoáng vật như thạch anh màu nhạt, fenspat và các khoáng vật màu sẫm, mica xếp lớp xen kẽ nhau trông rất đẹp. Do cấu tạo dạng lớp nên cường độ theo các phương khác cũng khác nhau, dễ bị phong hoá và tách lớp. Đá gơnai dùng chủ yếu để làm tấm ốp lòng bờ kênh, lát vỉa hè.
  • Đá hoa: là loại đá biến chất tiếp xúc hoặc biến chất khu vực, do tái kết tinh từ đá vôi và đá đôlômit dưới tác dụng của nhiệt độ và áp suất cao. Đá hoa bao gồm những tinh thể lớn hay nhỏ của canxit, thỉnh thoảng có xen các hạt đôlômit liên kết với nhau rất chặt. Đá hoa có nhiều màu sắc như trắng, vàng, hồng, đỏ, đen… xen lẫn những mảnh nhỏ và vân hoa. Cường độ chịu nén 1.200 kg/cm², đôi khi đến 3.000 kg/cm², dễ gia công cơ học, dễ mài nhắn và đánh bóng. Đá hoa được dùng làm đá tấm ốp trang trí mặt chính, làm bậc cầu thang, lát sàn nhà, làm cốt liệu cho bê tông, granito.
  • Đá quartzit (quăczit) là sa thạch hoặc cát kết thạch anh tái kết tinh tạo thành. Đá màu trắng đỏ hay tím, chịu phong hoá tốt, cường độ chịu nén khá cao (4.000 kg/cm²), độ cứng lớn. Quartzit được sử dụng để xây trụ cầu, chế tạo tấm ốp, làm đá dăm, đá hộc cho cầu đường, làm nguyên liệu sản xuất vật liệu chịu lửa.
  • Đá bản: có cấu tạo dạng phiến, tạo thành từ sự biến chất của đá trầm tích kiểu đá phiến sét dưới áp lực cao. Đá màu xám sẫm, ổn định đối với không khí, không bị nước phá hoại và dễ tách thành lớp mỏng. Diệp thạch sét dùng làm vật liệu lợp rất đẹp.

Các kết cấu đá biến chất

Năm kết cấu đá biến chất cơ sở với các kiểu đá điển hình là:

  • Dạng đá bản (bản nham): Đá bản và phyllit; sự phân phiến gọi là ‘cát khai đá bản’
  • Dạng diệp thạch (đá phiến, phiến nham): Diệp thạch hay đá phiến; sự phân phiến gọi là ‘cát khai đá phiến’
  • Dạng gơnai (đá phiến ma, phiến ma nham): Gơnai; sự phân phiến gọi là ‘cát khai gơnai’
  • Dạng granoblastic: Granulit, một vài dạng cẩm thạch (đá hoa) và quartzit
  • Dạng đá sừng: Đá sừng và skarn

Trân trọng./

CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG NAMSTONE

Namstone.vn – Giải pháp hoàn hảo cho ngôi nhà của bạn.

Tự hào là một trong những doanh nghiệp uy tín chuyên cung cấp các sản phẩm đá tự nhiên, cho nội thất và ngoại thất với nhiều chủng loại: Granite – Marble – Slate – Sandstone – Bluestone – Basalt.

Hotline: 0914 55 1996

Đá tự nhiên Mác Ma – Phần cuối

Namstone.vn – Ở phần trước Công ty đá tự nhiên Namstone giới thiệu tới các bạn đọc bài viết:

Bài viết hôm nay, Đá tự nhiên Namstone sẽ giới thiệu tới các bạn bài viết: Đá tự nhiên Mác Ma – Phần 2 và cũng là phần cuối của bài viết này.

Lưu ý quan trọng: Đây là những kiến thức cơ bản về Đá tự nhiên được xây dựng bởi những con người ở Namstone dày công tâm huyết tổng hợp để gửi tới các bạn đọc, các khách hàng muốn tìm hiểu và sử dụng đá tự nhiên trong cuộc sống hàng ngày trong gia đình mình hay trong những nơi mình làm việc.

Nhắc lại – Khái niệm đá tự nhiên Mác Ma

Đá mácma hay đá magma là những loại đá được thành tạo do sự đông nguội của những dung thể magma nóng chảy được đưa lên từ những phần sâu của vỏ Trái Đất. Quá trình đông nguội có thể tạo ra các đá có các khoáng vật kết tinh rõ ràng hoặc không kết tinh tùy thuộc vào môi trường mà khối magma đông nguội, và dựa vào đó người ta ta phân ra: đá xâm nhập và phun trào. Macma này có thể có nguồn gốc từ manti của Trái Đất hoặc từ các loại đá đã tồn tại trước đó bị nóng chảy do các thay đổi nhiệt độ áp suất cực cao. Trên 700 loại đá mácma đã được miêu tả lại, phần lớn trong chúng được tạo ra gần bề mặt lớp vỏ Trái Đất.

Khoáng vật: Hàm lượng khoáng vật của Fe và Si hay mafic:

  • Đá felsic, chủ yếu chứa thạch anh, fenspat kiềm và/hoặc khoáng vật chứa fenspat: các khoáng vật của Fe và Si; các dạng đá này (ví dụ granit) thông thường có máu sáng và có tỷ trọng thấp.
  • Đá mafic, chủ yếu chứa các khoáng vật mafic: pyroxen, olivin và plagiocla canxi; các loại đá này (ví dụ đá bazan) thông thường sẫm màu và có tỷ trọng lớn hơn đá felsic.
  • Đá siêu mafic, chứa trên 90% khoáng chất mafic (ví dụ dunit)
  • Bảng dưới đây là sự phân chia đơn giản đá lửa theo cả thành phần và phương thức diễn ra.

Bảng dưới đây là sự phân chia đơn giản đá lửa theo cả thành phần và phương thức diễn ra.

Thành phần
Phương thức diễn ra Axít Trung gian Bazơ Siêu bazơ
Xâm nhập Granit Điôrit Gabbrô Periđôtit
Phun trào Riôlit Anđêsit Bazan

Để có sự phân loại chi tiết hơn, xem Biểu đồ QAPF.

Các khoáng vật tạo đá chủ yếu

Các khoáng vật tạo đá mácma chủ yếu: thạch anh, fenspat, mica và khoáng vật màu.

Các khoáng vật có các tính chất khác nhau, nên sự có mặt của chúng tạo ra cho đá có những tính chất khác nhau (cường độ, độ bền vững, khả năng gia công…)

  • Thạch anh là SiO2 ở dạng kết tinh, tinh thể hình lăng trụ 6 cạnh, ít khi trong suốt mà thường có màu trắng và trắng sữa, độ cứng 7, khối lượng riêng 2,65 g/cm3, cường độ cao khoảng 20.000 kg/cm2, chống mài mòn tốt, ổn định đối với axit (trừ axit fluohidric và fosforic). Ở nhiệt độ thường, thạch anh không tác dụng với vôi, nhưng ở trong môi trường hơi nước bão hoà và nhiệt độ 175 – 2000C có thể sinh ra phản ứng silicat.
  • Fenspat có hai loại:
    • Cát khai thẳng góc-octola (K2O.Al2O3.6SiO2 – fenspat kali)
    • Cát xiên góc – plagiocla (Na2O.Al2O3.6SiO2 – fenspat natri và CaO.Al2O3.2SiO2 – fenspat canxi).
    • Tính chất cơ bản của fenspat: màu biến đổi từ trắng, trắng xám, vàng đến hồng và đỏ; khối lượng riêng: 2,55 – 2,76 g/cm3, độ cứng 6 – 6,5, cường độ chịu nén 1200 – 1700 kg/cm2. Khả năng chống phong hoá của felspat kém, kém ổn định đối với nước và đặc biệt là nước có chứa CO2 tạo ra Al2O3.2SiO2.2H2O là caolonit – thành phần chủ yếu của đất sét- theo phản ứng: K2O.Al2O3.6SiO2 + CO2 +2H2O –> K2CO3 + 4SiO2 + Al2O3.2SiO2.2H2O
  • Mica là những alumôsilicat ngậm nước rất phức tạp, có độ cứng 2-3, khối lượng riêng 2,76 – 3,2 g/cm3. Phổ biến nhất là hai loại biotit và muscovit.
    • Biotit có màu nâu đen hay còn gọi là mica đen, thường chứa ôxít magiê và ôxít sắt, công thức: (Mg, Fe)3.Si3.AlO10.OHF)2.
    • Muscovit thì trong suốt hay còn gọi là mica trắng, có công thức: K2O. Al2O3.6SiO2.2H2O.
    • Ngoài hai loại trên còn gặp vecmiculit được tạo thành do sự oxy hoá và hydrat hoá biotit. Khi nung ở 900 – 10000 độ C nước sẽ mất đi, thể tích vecmiculit tăng 18 – 25 lần.
  • Khoáng vật sẫm màu chủ yếu gồm amphibol, pyroxen, olivin là các khoáng vật có màu sẫm (từ màu lục đến màu đen) cường độ cao, dai và bền, khó gia công.

? THAM KHẢO MỘT SỐ DÒNG ĐÁ TỰ NHIÊN NAMSTONE ĐANG CUNG CẤP

Sử dụng

Đá mácma xâm nhập

  • Dunit là loại đá xâm nhập sâu của nhóm đá siêu mafic. Thành phần khoáng vật gồm chủ yếu là olivin với hơn 90%,pyroxen, hocblen thì hiếm hơn, ngoài ra còn có mica, cromit.Cấu tạo đặc sít, đôi khi phân dải. Kiến trúc hạt thô.
  • Granit (đá hoa cương) là loại đá axit có ở nhiều nơi, chủ yếu do thạch anh, fenspat và một ít mica, có khi còn tạo thành cả amphibol và pyroxen. Granit có màu tro nhạt, hồng nhạt hoặc vàng, phần lớn có kết tinh hạt lớn.
  • Granit rất đặc chắc, khối lượng thể tích 2600 – 2700 kg/m3, cường độ nén rất lớn (1200 – 2500 kg/cm2), độ hút nước nhỏ (dưới 1%), khả năng chống phong hoá rất cao, độ chịu lửa kém, có một số loại có màu sắc đẹp. Đá granit được sử dụng rộng rãi trong xây dựng (ốp mặt ngoài nhà và các công trình đặc biệt, nhà công cộng, làm nền móng cầu, cống, đập…)
  • Syenit là loại đá trung tính, thành phần khoáng vật chủ yếu là Orthoclas, plagiocla, axit, các khoáng vật màu sẫm (amphibol, pyroxen, biotit), một ít mica, rất ít thạch anh. Sienit màu tro hồng, có cấu trúc toàn tinh đều đặn, khối lượng riêng 2,7 -2,9 g/cm3, khối lượng thể tích 2400 – 2800 kg/m3, cường độ chịu nén 1500 – 2000 kg/cm2. Sienit được ứng dụng khá rộng rãi trong xây dựng.
  • Diorit là loại đá trung tính, thành phần chủ yếu là plagiocla trung tính (chiếm khoảng ¾), hocblen, augit, biotit, amphibol và một ít mica và pyroxen. Diorit thường có màu xám, xám lục có xen các vết sẫm và trắng; khối lượng thể tích 2900 – 3300 kg/m3, cường độ chịu nén 2000 – 3500 kg/cm2. Diorit dai, chống va chạm tốt, chống phong hoá cao, dễ đánh bóng, nên được sử dụng để làm mặt đường, tấm ốp.
  • Gabbro là loại đá bazơ, thành phần gồm có plagiocla bazơ (khoảng 50%) và các khoáng vật màu sẫm như pyroxen, amphibol và olivin. Gabbro có màu tro sẫm hoặc từ lục thẫm đến đen, đẹp, có thể mài nhẵn, khối lượng thể tích 2900 – 3300 kg/m3, cường độ chịu nén 2000 – 3500 kg/cm3. Gabbro được sử dụng làm đá dăm, đá tấm để lát mặt đường và ốp trang trí các công trình kiến trúc.

Đá mácma phun trào

  • Diaba có thành phần tương tự gabbro, là loại đá magma xâm nhập nông có thành phần mafic, có kiến trúc hạt nhỏ, hạt vừa xen lẫn với kiến trúc hiển tinh. Thành phần khoáng vật gồm có fenspat, pyroxen, olivin, màu tro sẫm hoặc lục nhạt, cường độ nén 3000 – 4000 kg/cm2. Đá diaba rất dai, khó mài mòn, được sử dụng chủ yếu làm đá rải đường và làm nguyên liệu đá đúc.
  • Bazan là loại đá bazơ, thành phần khoáng vật giống đá gabbro. Chúng có kiến trúc vi tinh hoặc kiến trúc pocfia. Đá bazan là loại đá nặng nhất trong các loại đá mácma, khối lượng thể tích 2900 – 3500 kg/cm3, cường độ chịu nén 1000 – 5000 kg/cm2 (có loại cường độ đến 8000 kg/cm2), rất cứng, giòn, khả năng chống phong hoá cao, rất khó gia công. Đá bazan là loại đá phổ biến nhất trong xây dựng, được sử dụng để lát đường làm cốt liệu bê tông, tấm ốp chống ăn mòn…
  • Andesit là loại đá trung tính. Thành phần của nó gồm plagiocla trung tính, các khoáng vật sẫm màu (amphibol, pyroxen) và mica; có kiến trúc ẩn tinh và kiến trúc dạng pocfia; có màu tro vàng, hồng, lục. Đá andesit có khả năng hút nước lớn, khối lượng thể tích 2200 ÷ 2700 kg/m3, cường độ chịu nén 1200 – 2400 kg/cm2, chịu được axit nên được dùng để làm vật liệu chống axit.

Đá trầm tích núi lửa

Ngoài các loại đá đề cập ở trên, trong đá mácma phun trào còn có đá bọt, tuf, tro và tuf dung nham. Các loại đá này bên cạnh việc hình thành do kết tinh nhanh như đá phun trào còn lắng đọng theo quy luật trầm tích. Nhiều tác giả Liên Xô cũ xếp loại đá này sang đá trầm tích.

  • Tro núi lửa: thưởng ở dạng bột, giống nhau màu xám. Những hạt lớn gọi là cát núi lửa. Đá bọt, là loại thuỷ tinh núi lửa có độ rỗng cao (độ rỗng đến 80%) được tạo thành khi tro núi lửa lắng đọng từ không khí. Đá bọt có kích thước 5-30mm, khối lượng thể tích 500 kg/m3, độ hút nước thấp vì các lỗ rỗng lớn và các lỗ rỗng ít liên thông nhau, hệ số truyền nhiệt nhỏ (0,12 – 0,2 kCal/m.0C.h, cường độ chịu nén 20 – 30 kg/cm2. Cát núi lửa, đá bọt được dùng làm cốt liệu cho bê tông nhẹ, còn bột thì làm vật liệu cách nhiệt và bột mài.
  • Tuf núi lửa: là loại đá rỗng, được tạo thành do quá trình tự lèn chặt tro núi lửa. Loại tuf núi lửa chặt nhất gọi là tơrat. Tuf núi lửa đá bọt cũng như tro núi lửa thường dùng làm phụ gia hoạt tính chịu nước cho chất kết dính vô cơ.
  • Tuf dung nham do tro và cát núi lửa rơi vào trong dung nham nóng chảy sinh ra. Nó là loại đá thuỷ tinh rỗng có màu hồng, tím…, khối lượng thể tích 750 ÷ 1400 kg/m3, cường độ chịu nén 60 – 100 kg/cm2, hệ số dẫn nhiệt trung bình là 0,3 kCal/m.0C.h. Trong xây dựng, tup dung nham được xẻ thành đá hộc để xây tường, sản xuất đá dăm cho bê tông nhẹ.

Nguồn gốc và phân bố

Lớp vỏ Trái Đất dày khoảng 35 km (22 dặm) tại các phần dưới các vỏ lục địa, nhưng trung bình chỉ khoảng 7 km (4,3 dặm) dưới các đại dương. Nó được tạo thành từ các loại đá có tỷ trọng tương đối thấp, và gần với lớp vỏ là các loại đặc hơn của lớp phủ, chúng mở rộng tới độ sâu gần 3.000 km (1.860 dặm). Phần lớn macma tạo thành đá mácma được sinh ra trong các phần phía trên của lớp phủ ở nhiệt độ khoảng từ 600 đến 1.600 °C.

Khi macma nguội đi, các khoáng vật sẽ kết tinh từ hỗn hợp nóng chảy ở các nhiệt độ khác nhau (quá trình kết tinh phân đoạn). Có tương đối ít khoáng vật có vai trò quan trọng trong sự hình thành của đá mácma. Có điều này là do macma nguồn chỉ giàu một số nguyên tố nhất định: silíc, ôxy, nhôm, natri, kali, canxi, sắt và magiê. Chúng là các nguyên tố khi kết hợp với nhau tạo ra các khoáng vật silicat, là các loại khoáng chất chiếm trên 90% thành phần các loại đá mácma.

Các loại đá mácma chiếm khoảng 95% toàn bộ phần phía trên của lớp vỏ Trái Đất, nhưng chúng phân bố phổ biến hơn ở bên dưới lớp đá trầm tích và đá biến chất tương đối mỏng nhưng phân bố rộng.

Hình ảnh Đá mác ma

Trân trọng./

CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG NAMSTONE

Namstone.vn – Giải pháp hoàn hảo cho ngôi nhà của bạn.

Tự hào là một trong những doanh nghiệp uy tín chuyên cung cấp các sản phẩm đá tự nhiên, cho nội thất và ngoại thất với nhiều chủng loại: Granite – Marble – Slate – Sandstone – Bluestone – Basalt.

Hotline: 0914 55 1996

Đá tự nhiên Mác Ma

Namstone.vn – Trong loạt bài viết serial: Tìm hiểu các loại đá tự nhiên trong thiên nhiên đã được Ban biên tập của Công ty đá tự nhiên Namstone giới thiệu tới các bạn đọc bài viết:

thì ở phần này Đá tự nhiên Namstone sẽ giới thiệu tới các bạn bài viết: Đá tự nhiên Mác Ma.

Lưu ý quan trọng: Đây là những kiến thức cơ bản về Đá tự nhiên được xây dựng bởi những con người ở Namstone dày công tâm huyết tổng hợp để gửi tới các bạn đọc, các khách hàng muốn tìm hiểu và sử dụng đá tự nhiên trong cuộc sống hàng ngày trong gia đình mình hay trong những nơi mình làm việc.

A – Khái niệm đá tự nhiên Mác Ma

Đá Basalt breccia
Đá Basalt breccia

Đá mácma hay đá magma là những loại đá được thành tạo do sự đông nguội của những dung thể magma nóng chảy được đưa lên từ những phần sâu của vỏ Trái Đất. Quá trình đông nguội có thể tạo ra các đá có các khoáng vật kết tinh rõ ràng hoặc không kết tinh tùy thuộc vào môi trường mà khối magma đông nguội, và dựa vào đó người ta ta phân ra: đá xâm nhập và phun trào. Macma này có thể có nguồn gốc từ manti của Trái Đất hoặc từ các loại đá đã tồn tại trước đó bị nóng chảy do các thay đổi nhiệt độ áp suất cực cao. Trên 700 loại đá mácma đã được miêu tả lại, phần lớn trong chúng được tạo ra gần bề mặt lớp vỏ Trái Đất.

B – Ý nghĩa địa chất

1) Đá mácma có ý nghĩa quan trọng về mặt địa chất do:

Các khoáng vật và tính chất hóa học tổng thể của chúng cung cấp thông tin về thành phần của lớp vỏ Trái Đất tại những đá mácma được hình thành cũng như các điều kiện về nhiệt độ và áp suất hình thành nên đá và thông tin về các loại đá trước đó bị nóng chảy;

Niên đại tuyệt đối của chúng có thể được thực hiện bằng các phương pháp định tuổi bằng đồng vị phóng xạ khác nhau và vì thế có thể so sánh với các địa tầng địa chất cận kề, cho phép miêu tả lại thời gian diễn ra các sự kiện một cách tương đối chính xác;

Các đặc điểm của chúng thông thường được đặc trưng bởi các điều kiện của môi trường kiến tạo cụ thể, cho phép tái tạo lại các mô hình kiến tạo (Xem thêm kiến tạo mảng);

Trong một số hoàn cảnh đặc biệt, chúng là nguồn gốc của một số mỏ khoáng sản quan trọng: ví dụ vonfram, thiếc và urani, thông thường hay đi cùng với đá granite.

Phun trào núi lửa và vì thế bị làm cứng và đông đặc trong điều kiện phơi ra ngoài khí quyển. Do nguội nhanh trong điều kiện nhiệt độ và áp suất thấp, các khoáng vật không kịp kết tinh, hoặc chỉ là kết tinh một phần nên có kích thước tinh thể bé, chưa hoàn chỉnh, hoặc tồn tại ở dạng vô định hình. Mặt khác, các chất khí và hơi nước không kịp thoát ra, để lại nhiều lỗ rỗng, làm cho đá nhẹ, có loại nổi trên mặt nước.

Ngoài ra, đá phun trào cũng được còn gọi là đá núi lửa, trong ngôn ngữ một số tiếng nước ngoài như tiếng Anh chẳng hạn, gọi là volcanic rock, lấy theo tên của Vulcan còn là tên gọi của người La Mã để chỉ vị thần cai quản lửa. Ở độ sâu vài kilômét dưới bề mặt Trái Đất thì nhiệt độ cao hơn so với nhiệt độ mà phần lớn các loại đá có thể nóng chảy tại bề mặt. Tuy nhiên, các loại đá này vẫn ở dạng cứng do áp suất lớn tạo ra bởi các lớp đá nằm phía trên. Nếu như có các khe nứt trong các lớp đá thì áp suất bị tụt xuống và một khối lượng đáng kể đá bị nóng chảy. Đá Macma tạo ra sẽ bị ép phụt lên trên thông qua các kẽ nứt tới bề mặt và tạo thành núi lửa.

Đá tự nhiên Namstone
Đá tự nhiên Namstone

Đá nóng chảy (gọi là dung nham hay lava) sẽ chảy ra từ núi lửa và loang rộng. Do dung nham bị nguội và kết tinh nhanh nên nó tạo ra các loại đá có kiến trúc vi tinh. Nếu sự làm nguội là quá nhanh, không cho quá trình kết tinh có thể xảy ra thì các loại đá tạo thành có kiến trúc thủy tinh (chẳng hạn như đá obsidian tức đá vỏ chai).

Do kiến trúc vi tinh nên các dạng khác nhau của đá phun trào khó phân biệt bằng mắt thường hơn so với các dạng khác nhau của đá xâm nhập. Nói chung, với kiến trúc vi tinh các khoáng vật của đá phun trào chỉ có thể xác định bằng cách soi kính thạch học (đá được mài thành các mẫu mỏng và được soi dưới kính hiển vi có hai ni-côn) và sự phân loại bằng mắt thường chỉ là gần đúng.

Các vật chất có thể bị núi lửa tống ra ngoài rất mãnh liệt trong quá trình hoạt động phun trào là các khối, cục đá và tro. Các vật chất này được gọi là đá trầm tích núi lửa (cũng còn gọi là đá vụn núi lửa, tuf) và có thể rơi gần đó, tạo thành một phần của núi lửa hay bị mang đi xa nhờ gió.

Các tinh thể chứa trong đá lửa ban tinh mịn được gọi là pocfia. Kiến trúc pocfia phát triển khi một số tinh thể phát triển lớn đến kích thước đáng kể trước khi phần chủ yếu của macma đông đặc lại thành khối vật liệu đồng nhất hạt mịn.

2) Xâm nhập nông

Khái niệm xâm nhập nông hiện nay vẫn còn một số tranh cãi nhưng đa số các quan điểm cho rằng nó được kết tinh bên dưới mặt đất đến độ sâu 1,5 km.

  • Phân loại

Việc phân loại đá mácma có thể cung cấp cho con người thông tin quan trọng về các điều kiện mà chúng hình thành. Hai yếu tố quan trọng được sử dụng trong phân loại đá lửa là kích thước hạt (phụ thuộc rất nhiều vào lịch sử quá trình làm nguội) và thành phần khoáng vật của đá. Fenspat, thạch anh, olivin, pyroxen, amphibol và mica là các khoáng vật quan trọng trong sự hình thành đá mácma và sự có mặt của chúng là cơ sở để phân loại các loại đá này. Các khoáng vật khác có mặt trong đá không điển hình được gọi là khoáng chất phụ.

Trong phân loại đơn giản hóa, các dạng đá mácma được chia trên sự hiện diện của fenspat, sự có/vắng mặt của thạch anh và trong các loại đá không có fenspat hay thạch anh thì theo sự có mặt của các khoáng vật chứa sắt hay magiê.

  • Kích thước tinh thể

Theo kích thước tinh thể, đá mácma có thể phân loại thành pecmatit (hạt rất lớn), hiển tinh (chỉ có hạt lớn hay phanerit), ban tinh (một số hạt lớn trên nền là các hạt nhỏ hay pocfia), vi tinh (chỉ có hạt nhỏ hay aphanit), thủy tinh (không có hạt).

Đá có kiến trúc hiển tinh chứa các khoáng vật với tinh thể nhìn thấy bằng mắt thường và thường đặc trưng cho đá xâm nhập (do quá trình làm nguội càng chậm thì tinh thể càng to). Trong một số ngoại lệ, dạng đá này có thể chứa các tinh thể cực lớn, trong trường hợp này chúng được gọi là pecmatit.

Đá Olivine basalt
Đá Olivine basalt

Trong đá phun trào, khi quá trình làm nguội là nhanh hơn, các tinh thể khoáng vật riêng rẽ thông thường không nhìn thấy được bằng mắt thường và chúng được gọi là kiến trúc vi tinh.

Kiến trúc ban tinh là trạng thái trung gian giữa hai loại trên: khối đá có kiến trúc vi tinh, nhưng trên nền vi tinh này có thể quan sát được một số tinh thể.

Nếu macma nóng chảy bị làm nguội quá nhanh không cho quá trình kết tinh diễn ra thì sản phẩm tạo ra là có kiến trúc thủy tinh như thủy tinh núi lửa hay opxidian đôi khi còn được gọi là đá vỏ chai.

  • Hình dạng tinh thể

Hình dạng tinh thể cũng là yếu tố quan trọng trong kiến trúc đá mácma. Các tinh thể có thể là tự hình, bán tự hình và tha hình:

Tự hình (Euhedral), nếu hình dạng tinh thể được bảo toàn hay tinh thể có các mặt kết tinh rõ ràng.

Bán tự hình (Subeuhedral), nếu chỉ một phần được bảo toàn.

Tha hình (Anhedral), nếu tinh thể không thể hiện rõ ràng hướng kết tinh có thể nhận biết được.

  • Theo cấu tạo

Cấu tạo lỗ hổng là đá có các khoảng trống sinh ra bởi khí bị chiếm giữ trong quá trình nguội đi.

Cấu tạo dòng chảy được hình thành khi mácma chảy tràn trên bề mặt và đông nguội với các tốc độ khác nhau.

Tuf bao gồm các đá vụn có trước hoặc bom núi lửa bị đẩy ra khi núi lửa phun trào gồm một số loại như: tufit, tufogen.

  • Thành phần khoáng vật – hóa học

Các dạng đá mácma có thể phân chia nhỏ theo các thông số hóa học/ khoáng vật tạo đá theo hai hướng chính:

Hóa học: – Tổng hàm lượng kiềm – silica (biểu đồ TAS) cho phân loại đá mácma được sử dụng khi không có các dữ liệu về quá trình hình thành hay thành phần khoáng vật:

  • Các đá mácma axít chứa hàm lượng silica cao, lớn hơn 63% SiO2 (ví dụ rhyolit và dacit)
  • Các đá mácma trung tính chứa 52 – 63% SiO2 (ví dụ andesit)
  • Các đá mácma mafic chứa ít silica (45 – 52%) và thông thường chứa nhiều sắt – magiê (ví dụ đá bazan)
  • Các đá mácma siêu mafic chứa ít hơn 45% silica. (ví dụ picrit và komatiit)
  • Các đá mácma kiềm với 5 – 15% chất kiềm (K2O + Na2O) (ví dụ phonolit và trachyt)

Ghi chú: Thuật ngữ axít-bazơ được sử dụng rộng rãi hơn trong các tài liệu địa chất cũ. Thay vào đó, người ta sử dụng các thuật ngữ felsic, mafic, siêu mafic…

Khoáng vật: Hàm lượng khoáng vật của Fe và Si hay mafic:

  • Đá felsic, chủ yếu chứa thạch anh, fenspat kiềm và/hoặc khoáng vật chứa fenspat: các khoáng vật của Fe và Si; các dạng đá này (ví dụ granit) thông thường có máu sáng và có tỷ trọng thấp.
  • Đá mafic, chủ yếu chứa các khoáng vật mafic: pyroxen, olivin và plagiocla canxi; các loại đá này (ví dụ đá bazan) thông thường sẫm màu và có tỷ trọng lớn hơn đá felsic.
  • Đá siêu mafic, chứa trên 90% khoáng chất mafic (ví dụ dunit)
  • Bảng dưới đây là sự phân chia đơn giản đá lửa theo cả thành phần và phương thức diễn ra.

Hết phần 1.

Mời các bạn theo dõi bài viết chi tiết về đá tự nhiên Đá mácma – phần cuối được đăng tải ngày 17/04/2019, kính mời Quý bạn đọc đón chờ.

Trân trọng./

CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG NAMSTONE

Namstone.vn – Giải pháp hoàn hảo cho ngôi nhà của bạn.

Tự hào là một trong những doanh nghiệp uy tín chuyên cung cấp các sản phẩm đá tự nhiên, cho nội thất và ngoại thất với nhiều chủng loại: Granite – Marble – Slate – Sandstone – Bluestone – Basalt.

Hotline: 0914 55 1996

Tìm hiểu các loại Đá tự nhiên trong thiên nhiên – Phần cuối

Tìm hiểu các loại Đá tự nhiên trong thiên nhiên – Phần cuối

Namstone.vn – Tiếp theo bài viết Tìm hiểu các loại đá tự nhiên trong thiên nhiên đã giới thiệu tới các bạn đọc bài viết:

, thì ở phần 3 cũng là phần cuối trong loạt bài Tìm hiểu các loại đá tự nhiên trong thiên nhiên. Namstone sẽ chia sẻ thêm tới các bạn nội dung:

Đá biến chất

Đá biến chất được tạo ra từ sự thay đổi của bất kỳ loại đá nào (bao gồm cả đá biến chất đã hình thành trước đó) đối với các điều kiện thay đổi của môi trường như nhiệt độ và áp suất so với các điều kiện nguyên thủy mà các loại đá đó được hình thành. Các điều kiện nhiệt độ và áp suất này luôn luôn cao hơn so với các chỉ số của chúng ở bề mặt Trái Đất, và phải đủ cao để có thể thay đổi các khoáng chất nguyên thủy thành các dạng khoáng chất khác hoặc thành các dạng khác của cùng một khoáng chất (ví dụ bằng sự tái kết tinh).

Gneiss, đá biến chất cấu tạo phân phiến hình thành trong quá trình biến chất khu vực. Hình ảnh: internet
Gneiss, đá biến chất cấu tạo phân phiến hình thành trong quá trình biến chất khu vực. Hình ảnh: internet

Mức độ biến chất của đá có thể được miêu tả qua một số tướng, mỗi tướng đặc trưng bởi một số loại đá có khoáng sản đi kèm trong một giới hạn nhiệt độ và áp suất nhất định. Lý thuyết về tướng biến chất được nhà địa chất Phần Lan, Pentti Eskola đưa ra năm 1915, lý thuyết này là sự phát triển tiếp theo của công trình phiến biến chất được Viktor M. Goldschmidts đưa ra từ thập niên 1900.

Trong trường hợp nhiệt độ là yếu tố chính thì biến chất xảy ra theo đường màu xanh lá cây (hình bên) tạo ra đá biến chất tướng amphibolit và granulit. Trong trường hợp va mảng mà yếu tố chi phối là áp lực thì tạo nên tướng đá phiến lam và eclogit.

Môi trường biến chất

Biến chất khu vực xảy ra trong khu vực rộng lớn, chẳng hạn như các dãy núi. Khi các mảng kiến tạo hội tụ và các tầng trên của các lớp gấp lại và ép xuống làm những lớp đá hình thành trước bị lún sâu hơn, bên trên là những lớp trầm tích mới tích tụ dần gây nên áp lực và nhiệt độ gia tăng. Điều này dẫn đến cả hai quá trình tái kết tinh và thay đổi cấu trúc. Loại đá này có tính phân phiến (lớp mỏng) nên tính chất cơ học kém hơn đá mácma. Ví dụ Đá gơnai (do đá granit tái kết tinh), phiến sét (do sự biến chất của đất sét dươi áp lực cao).

Biến chất tiếp xúc xảy ra khi đá nằm bên cạnh một khối mácma bị ảnh hưởng bởi nhiệt từ mácma. Kích thước của mácma ảnh hưởng đến khoảng cách mà khối đá có trước bị biến chất. Trong một thể magma lớn, giống như một thể batolit lớn có thể đến vài km, thì lớp biến chất tiếp xúc có thể chỉ vài cm. Biến chất tiếp xúc xảy ra ở tất cả các độ sâu trong lớp vỏ, nhưng là rõ ràng nhất khi nó xảy ra gần bề mặt, bởi vì áp lực thấp, và độ lệch nhiệt độ quá lớn. Vì biến chất tiếp xúc không liên quan đến bất kỳ áp lực nào tác động lên nên các tinh thể không định hướng theo bất kỳ hướng nào. Ví dụ đá hoa (do tái kết tinh đá vôi và đá đôlômit dưới tác dụng của nhiệt độ và áp suất cao mà thành), thạch anh (biến chất từ cát)…

Biến chất nhiệt dịch xảy ra khi dòng nhiệt dịch nóng xen vào trong các khe nứt làm ảnh hưởng đến khối đá có trước. Điều này thường xảy ra trong các khe nứt của các hoạt động lửa, vì điều này góp phần ra nhiệt cần thiết.

Biến chất va chạm xảy ra khi thiên thạch va chạm bề mặt đất, do động năng rất lớn của thiên thạch được chuyển thành nhiệt và áp suất trong đá bị va chạm. Trong một số trường hợp, những tác động này tạo thành các coesit, một loại silica mật độ lớn, và thậm chí hình thành các hạt kim cương nhỏ. Sự hiện diện của các khoáng chất như trên cho thấy rằng ít nhất là thiên thạch đã tạo ra áp lực và nhiệt độ gây biến đổi phần trên cùng, nơi mà các khoáng vật thường được hình thành.

Cấu tạo

Cấu tạo đặc trưng của đá biến chất là phân phiến, đó là sự sắp xếp có định hướng của các khoáng vật dưới tác động của áp suất chính trong quá trình hình thành đá biến chất, ví dụ như đá gneiss, đá phiến lam, đá phiến lục. Phương áp lực sẽ vuông góc với mặt phẳng chứa các phiến. Dựa vào đặc điểm này, người ta có thể tái hiện môi trường kiến tạo vào lúc mà đá đó được hình thành. Tuy nhiên, không phải đá biến chất nào cũng có cấu tạo phân phiến. Các đá không có cấu tạo phân phiến như quartzit, đá hoa, đá sừng.

Thiên thạch

Thiên thạch là một loại đá có nguồn gốc trong không gian chứ không phải hình thành trên Trái Đất. Một số thiên thạch có thể là dấu tích còn sót lại từ sự hình thành hệ Mặt Trời cách nay hơn 4,6 tỷ năm. Thiên thạch thường bao gồm khoáng vật silicat (95%) và rất nhiều hợp kim sắt- niken, hoặc sự kết hợp cả hai (5%).

Thiên thạch sắt bao gồm hợp kim sắt-niken và chiếm khoảng 3,8% của tất cả thiên thạch. Chúng được cho là bao gồm các vật liệu từ lõi của các tiểu hành tinh bị gián đoạn. Thiên thạch sắt rơi vào ba nhóm tùy thuộc vào thành phần niken/sắt và cấu trúc tinh thể; hexahedriter chứa 4-6% niken, octahedriter chứa 6-12% niken và ataxiter chứa nhiều hơn 12% niken. Cấu trúc tinh thể của hexahedriter giống như một hình chữ nhật, octahedriter có mô hình lục giác và ataxiter không có cấu trúc tinh thể khác nhau.

Thiên thạch sắt đá bao gồm một hỗn hợp xấp xỉ bằng hợp kim sắt-niken và khoáng chất silicat và tương ứng với khoảng 0,5% của tất cả các thiên thạch được biết đến. Chúng được cho là thành tạo từ vật liệu từ khu vực tiếp giáp giữa lõi thiên thể và lớp vỏ của nó.

Sử dụng

Đá là một loại vật liệu gắn liền với lịch sử phát triển của loài người. Thời tiền sử, bắt đầu thời đại đồ đá con người đã biết dùng đá để làm vũ khí tự vệ, săn bắn, công cụ sản xuất. Những công trình bằng đá nổi tiếng như kim tự tháp, Angkor Wat, thành Babylon, El-Djem (Tuynizi), Colisée (Ý), Bourgogne (Pháp), Épidayre (Hy Lạp), vv.

Làm vật liệu xây dựng

Là sản phẩm sản xuất từ đá thiên nhiên bằng phương pháp gia công cơ học hoặc do phong hóa tự nhiên như: đá hộc, đá tấm (phiến), đá dăm, cát…

Từ đá thiên nhiên có thể chế tạo một số chất kết dính như xi măng (đá vôi+ đất sét+ nung + clinker, nghiền +PG XM), vôi (nung đá vôi CaCO3), thạch cao xd CaSO4.0.5H2O (nung đá thạch cao CaSO4.2H2O) …

Vật liệu đá xây dựng được sử dụng rộng rãi nhờ có những ưu điểm sau:

  • Cường độ chịu nén cao, Rn cao.
  • Bền vững trong môi trường sử dụng.
  • Dùng để trang trí như đá hoa, đá granit (hay đá hoa cương), đá gabro, đá biến chất tái kết tinh và một số loại đá phiến.[23]
  • Giá thành thấp, tận dụng được nguồn nguyên liệu địa phương.
  • Bên cạnh đó còn có một số nhược điểm: khối lượng thể tích lớn, quá trình gia công phức tạp, vận chuyển và thi công khó khăn.
Mỏ đá Portland trên đảo Portland, Anh. Đây là loại đá được dùng nhiều trong xây dựng trên đảo Anh như Nhà thờ Thánh Paul và Cung điện Buckingham. Hình ảnh: internet
Mỏ đá Portland trên đảo Portland, Anh. Đây là loại đá được dùng nhiều trong xây dựng trên đảo Anh như Nhà thờ Thánh Paul và Cung điện Buckingham. Hình ảnh: internet

Tính chất các đá làm vật liệu xây dựng bao gồm trọng lượng thể tích và cường độ ở trạng thái khô, như các loại nhẹ (trọng lượng < 1800 kg/m3 và có mác tương ứng 5, 10, 15, 75, 100, 150 kG/cm2) thường dùng xây tường cho nhà cần cách nhiệt; loại nặng (> 1800 kg/m3 và có mác tương ứng 100, 150, 200, 400, 600, 800, 1000 kG/cm2) dùng trong các công trình chịu lực, công trình thủy công để xây móng, tường chắn, lớp phủ bờ kè, ốp lát…

  • Theo hệ số mềm, các đá được chia thành 4 cấp:? 0.6; 0.6 – 0.75; 0.75 – 0.9;và? 0.9.
  • Theo yêu cầu sử dụng và mức độ gia công
    • Đá hộc: gia công theo phương pháp nổ mìn. Dùng để xây móng nhà, tường chắn, trụ cầu,
    • Đá đẽo thô, vừa, kỹ tùy theo yêu cầu sử dụng của công trình.
    • Đá kiểu: được chọn lọc kỹ, chất lượng cao, dùng để trang trí cho các công trình.
    • Đá phiến: để ốp lát, trang trí.
    • Đá dăm: làm cốt liệu trộn bê tông.

Mời các bạn theo dõi bài viết chi tiết về đá tự nhiên Đá mácma được đăng tải ngày 15/04/2019, kính mời Quý bạn đọc đón chờ.

Trân trọng./

CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG NAMSTONE

Namstone.vn – Giải pháp hoàn hảo cho ngôi nhà của bạn.

Tự hào là một trong những doanh nghiệp uy tín chuyên cung cấp các sản phẩm đá tự nhiên, cho nội thất và ngoại thất với nhiều chủng loại: Granite – Marble – Slate – Sandstone – Bluestone – Basalt.

Hotline: 0914 55 1996

Tìm hiểu các loại Đá tự nhiên trong thiên nhiên – Phần 2

Namstone.vn – Tiếp theo bài viết Tìm hiểu các loại đá tự nhiên trong thiên nhiên đã giới thiệu ở phần 1 tới các bạn đọc, thì ở phần tiếp theo này. Namstone sẽ chia sẻ thêm tới các bạn nội dung:

Các loại đá mácma

Đá mácma chia theo thành phần SiO2 và theo môi trường thành tạo được miêu tả trong bảng bên dưới.

Thành phần (% SiO2)
Phương thức diễn ra Felsic (> 66 %[7]) Trung gian (52 – 66% [7]) Mafic (45 – 52% [7]) Siêu mafic (< 45% [7])
Xâm nhập Granit Điôrit Gabbrô Periđôtit
Phun trào Riôlit Anđêsit Bazan
Granit, kiến trúc hạt thô
Granit, kiến trúc hạt thô: Một sản phẩm từ quá trình vận động của vỏ trái đất.

1) Đá mácma xâm nhập

Đá mácma xâm nhập được thành tạo khi dung dịch macma nguội đi và các tinh thể khoáng vật kết tinh chậm bên trong vỏ Trái Đất. Các tinh thể kết tinh rõ ràng, các đá loại này thường có cấu tạo đặc sít. Sự kết tinh của dung dịch mácma trong giai đoạn sau có môi trường thuận lợi để hình thành loại đá có kích thước hạt rất to như pegmatit. Các đá xâm nhập có mặt trong các dãy núi cổ và hiện đại, tuy nhiên chúng chỉ có trên các lục địa.

a) Đá mácma phun trào

Đá mácma phun trào được thành tạo khi dung dịch mácma phun trào lên trên bề mặt đất; có sự giải phóng các chất khí có trong dung dịch macma một cách mãnh liệt, các đá macma phún xuất thường có cấu tạo rỗng xốp. Trên mặt đất, do nguội lạnh nhanh, macma không kịp kết tinh, hoặc chỉ kết tinh được một bộ phận với kích thước tinh thể rất nhỏ, chưa hoàn chỉnh, còn đại bộ phận tồn tại ở dạng vô đình hình, trong đá có lẫn nhiều bọt khí (do đang sôi và bị nguội lạnh nhanh): đó là dạng macma phún xuất chặt chẽ. Ví dụ Đá diabazơ, bazan, andezit. Có tính chất rỗng nhẹ, cứng và rất giòn. Sử dụng làm cốt liệu cho bê tông nhẹ, dụng làm phụ gia hoạt tính cho bê tông và xi măng…

Khi macma đang sủi bọt, gặp lạnh đông lại nên rất xốp và nhẹ, hoặc phần macma bị phun lên cao, bay xa, nguội nhanh, hơi nước, khí thoát ra nhiều nên có kết cấu rỗng vụn, lỗ nhỏ: đó là dạng macma phún xuất rời rạc. Ví dụ Tro, túp núi lửa, túp dung nham. Tính chất nhẹ. Dùng làm phụ gia trơ cho bê tông và xi măng. Ngoài các núi lửa trên đất liền, một lượng lớn đá này hình thành một cách liên tục ở các sống núi giữa đại dương.

b) Đá mạch

Đá mạch là các loại đá xâm nhập khi mácma đi lên theo các khe nứt kiến tạo, đứt gãy hoặc các đá có trước bị yếu đi do các yếu tố kiến tạo. Các quá trình hình thành loại đá này có thể xảy ra trên cạn hoặc dưới đáy biển. Quá trình kết tinh có thể xảy ra ở các cấp áp suất và nhiệt độ đa dạng tùy thuộc vào vị trí và thế nằm của chúng.

c) Thế nằm của đá

Những yếu tố ảnh hưởng đến dạng nằm của đá magma

  • Hoạt tính của magma: Hoạt tính của magma liên quan tới tác dụng hóa học của magma. Hoạt tính của magma được thể hiện thông qua hàm lượng chất bốc, độ nhớt, trọng lực, áp suất thủy tĩnh…
    • Chất bốc (khí trong magma): Những magma giàu chất bốc sẽ xuất hiện các lực đưa magma xuyên vào đá vây quanh dễ dàng hơn magma nghèo chất bốc.
    • Hoạt tính liên quan đến trọng lực do sự chênh lệch tỷ trọng giữa đá magma và đá vây quanh: khiến cho magma di chuyển vào đá vây quanh khi có điều kiện thuận lợi.
    • Hoạt tính cũng liên quan đến áp suất thủy tĩnh (là áp suất của các khối đá trên đè xuống các khối đá dưới) do đó mà magma ở dưới độ sâu càng lớn thì có áp suất thủy tĩnh càng lớn và lò magma luôn có xu hướng dâng lên các tầng trên của Vỏ Trái đất để tạo nên các thể xâm nhập dạng vỉa, nấm…
    • Hoạt tính của magma liên quan đến sự phá huỷ các cân bằng tướng khí lỏng của magma, magma có áp suất khí cao khi dâng lên phần nông của Vỏ Trái Đất, áp suất mái giảm đi có thể gây nổ và tạo các ống nổ.
    • Hoạt tính của magma liên quan đến độ nhớt của magma và độ nhớt này ảnh hưởng đến hình dạng của thể đá magma: độ nhớt của magma phụ thuộc vào thành phần hóa học của magma, magma có độ nhớt càng thấp thì càng dễ chảy tràn và ngược lại (magma bazơ có độ nhớt thấp thì khi đưa lên bề mặt thường chảy tràn còn magma axit có độ nhớt cao thì thường tạo khối).

Yếu tố ngoại sinh bao gồm:

  • Hoạt động kiến tạo: Các hoạt động kiến tạo mức độ khác nhau sẽ tạo các đường dẫn khác nhau, từ đó sẽ dẫn đến hình dạng khác nhau của các thể đá magma.
  • Đặc điểm địa hình và đá vây quanh.

Dạng nằm của các đá magma xâm nhập

  • Thể nền (batolit): bất chỉnh hợp với đá vây quanh, phình ra ở phía dưới và không có đáy. Kích thước thường rất lớn, tới hàng ngàn km2.
  • Thể cán: giống thể nền, chỉ khác kích thước nhỏ hơn, diện tích lộ không quá 100-200km2.
  • Thể vỉa: do magma có áp lực xuyên vào khoảng giữa hai lớp đá, nó có hai mặt tiếp xúc song song, đường đưa magma lên là những khe nứt, đứt gãy. Kích thước rất khác nhau, bề dày từ vài chục mét đến hàng trăm mét. Chỉnh hợp với đá vây quanh
  • Thể nấm: giống hình cái nấm hoặc bánh dày, phân biệt với thể vỉa do kích thước tương đối (chiều dày:chiều rộng>1:8), ngoài rìa mỏng dần so với phần trung tâm. Thường là các thể xâm nhập nông, nằm chỉnh hợp với đá vây quanh.
  • Thể thấu kính, thể chậu: thường nằm kẹp giữa các nếp uốn, do khối nhỏ magma xuyên vào vỏ Trái đất rồi bị cuốn theo chuyển động dẻo, chúng thường không có rễ, chỉnh hợp với đá vây quanh.
  • Thể tường: nằm dốc đứng bất chỉnh hợp với đá vây quanh, kích thước từ vài chục mét đến hàng trăm km.

Dạng nằm của đá magma phun trào

  • Dạng dòng dung nham.
  • Dạng lớp phủ.
  • Dạng vòm, kim, tháp.

2) Đá trầm tích

Phần lớn lớp vỏ trái đất được cấu tạo bởi các đá mácma và đá biến chất, ước tính chúng chiếm khoảng 90-95% trong 16 km tính từ bề mặt trái đất. Dù vậy, hầu hết bề mặt trái Đất được bao phủ bởi trầm tích. Về cơ bản tất cả đáy biển được phủ bởi trầm tích và 70-80% các lục địa được bao phủ bởi các đá trầm tích. Hầu hết các hóa thạch được phát hiện trong trầm tích, đá trầm tích và đá biến chất từ đá trầm tích, chúng là các dấu hiện quan trọng cho việc tìm hiểu các điều kiện môi trường mà trước đây từng tồn tại trên bề mặt Trái Đất. Các nguồn năng lượng như dầu mỏ, khí thiên nhiên, than đá và urani được chiết tách từ đá trầm tích.

Đá trầm tích được tạo ra từ sự lắng đọng của các mảnh vụn hoặc các chất hữu cơ, hay các chất kết tủa hóa học (các chất còn lại sau quá trình bay hơi), được nối tiếp bằng sự kết đặc của các chất cụ thể và quá trình xi măng hóa. Quá trình xi măng hóa có thể diễn ra tại hoặc gần bề mặt Trái Đất, đặc biệt là đối với các loại trầm tích giàu cacbonat.

Đặc điểm

Do được hình thành trong các điều kiện môi trường năng lượng thấp nên đá trầm tích có các đặc điểm chung là:

  • Có tính phân lớp rõ rệt, chiều dày, màu sắc, thành phần, độ lớn của hạt, độ cứng… của các lớp cũng khác nhau.
  • Cường độ nén theo phương vuông góc với các lớp luôn luôn cao hơn cường độ nén theo phương song song với thớ.
  • Đá trầm tích không đặc, chắc bằng đá mácma (do các chất keo kết thiên nhiên không chèn đầy giữa các hạt hoặc do bản thân các chất keo kết co lại). Vì thế cường độ của đá trầm tích thấp hơn, độ hút nước cao hơn. Một số loại đá trầm tích khi bị hút nước, cường độ giảm đi rõ rệt, có khi bị tan rã trong nước. Đá trầm tích rất phổ biến, dễ gia công nên được sử dụng khá rộng rãi.

Phân loại

Do sự tích tụ, lắng đọng hay kết tủa trong nước của các khoáng chất, của đất đá bị phong hóa, vỡ vụn tích lũy thành khối mà thành. Dựa vào nguồn gốc hình thành có ba loại:

  • Đá trầm tích mảnh vụn

Đá trầm tích mảnh vụn hay trầm tích cơ học được hình thành từ các sản phẩm vụn nát sinh ra trong quá trình phong hóa các loại đá có trước tích tụ lại mà thành. Về cấu tạo, đá mảnh vụn gồm hai hợp phần là các mảnh vụn và xi măng gắn kết các mảnh vụn đó lại. Phần mảnh vụn là các hạt có nhiều kích thước khác nhau, và thành phần khác nhau; còn xi măng là các hạt có kích thước nhỏ hơn cỡ hạt sét như xi măng sét, xi măng vôi hoặc xi măng silic. Một số đá trầm tích mảnh vụn thường gặp như dăm kết, cuội kết, sa thạch.

  • Đá trầm tích hóa học

Đá trầm tích hóa học tạo thành do các khoáng chất hòa tan trong nước lắng đọng, kết tủa lại, như đá vôi dolomit. thạch cao, anhydrit, tup đá vôi…

Đá vôi chiếm khoảng 10-15% của các loại đá trầm tích của trái đất. Cacbonat canxi, CaCO3, có tồn tại ở hai loại khoáng vật là canxit và aragonit. Đá vôi có thể được hình thành trong nhiều cách khác nhau, canxi cacbonat có thể được kết tủa từ nước biển bão hòa, hoặc sinh học, động vật có vỏ đá vôi để lại vỏ. Có cả động vật hình thành khung xương aragonit và động vật hình thành khung xương canxit, và tùy thuộc vào loại động vật sinh sống ở một hốc đá vôi có thể khác nhau đáng kể giữa các địa điểm.

Loại phổ biến nhất của các loại đá kết tủa hóa học là evaporit, được hình thành khi nước giàu muối hòa tan bị bốc hơi. Khi bay hơi nồng độ muối tăng cho đến khi nước được bão hòa và muối bắt đầu kết tủa. Một lượng lớn các đá evaporit hình thành khi biển bốc hơi trong khu vực Địa Trung Hải trong suốt thế Miocene và dọc theo bờ Biển Chết ngày nay. Các loại khoáng evaporit gồm thạch cao (CaSO4·2H2O), thạch cao khan (CaSO4) và halit (NaCl).

  • Đá trầm tích hữu cơ

Trầm tích hữu cơ tạo thành do sự tích tụ xác động vật, thực vật như đá vôi, đá vôi vỏ sò, đá phấn, đá diatomit, trepen… Trầm tích hữu cơ thường bị các vi sinh vật tiêu thụ ôxy phá hủy. Tuy nhiên, nếu lượng oxy không đủ, vi sinh vật không thể phá hủy toàn bộ nguyên liệu, và nó có thể tạo thành một tảng đá hữu cơ. Các loại đá này có thể được hình thành cả trên các lục địa và đại dương. Ví dụ về một môi trường lục địa là than và biển là đá phiến dầu. Thành phần của hợp chất carbon và carbon có thể lên tới 25% và hàm lượng lưu huỳnh có thể lên tới 12%.

Đá trầm tích núi lửa

  • Đá hình thành do mảnh vụn của núi lửa lắng đọng và nén ép thành đá như tuff.

Mời các bạn theo dõi tiếp phần 3: Tìm hiểu các loại Đá tự nhiên trong thiên nhiên được đăng tải ngày 12/04/2019.

Trân trọng./

CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG NAMSTONE

Namstone.vn – Giải pháp hoàn hảo cho ngôi nhà của bạn.

Tự hào là một trong những doanh nghiệp uy tín chuyên cung cấp các sản phẩm đá tự nhiên, cho nội thất và ngoại thất với nhiều chủng loại: Granite – Marble – Slate – Sandstone – Bluestone – Basalt.

Hotline: 0914 55 1996

Tìm hiểu các loại Đá tự nhiên trong thiên nhiên – Phần 1

Namstone.vn – Bài này nói về đá như là một tập hợp tự nhiên của các khoáng vật của thiên nhiên ban tặng. Như bài trước chúng ta đã biết khái niệm về sự hình thành của Đá tự nhiên.

1 – Đá

Đá là tổ hợp có quy luật của các loại khoáng vật, có thể là một thể địa chất có lịch sử hình thành riêng biệt. Cách phân loại tổng quát nhất dựa trên nguồn gốc thành tạo gồm đá macma, đá trầm tích và đá biến chất. Đôi khi thiên thạch được xem là một nhóm đá riêng có nguồn gốc từ vũ trụ.

Tìm hiểu các Đá tự nhiên trong thiên nhiên – Phần 1
Tìm hiểu các Đá tự nhiên trong thiên nhiên – Phần 1

Với thời gian đời người đá không có sự biến đổi nhưng chúng có thể bị biến đổi bởi các quá trình địa chất diễn ra trong thời gian rất dài. Chu trình thạch học mô tả các giai đoạn mà các loại đá được hình thành và biến chuyển từ dạng này sang dạng khác. Đá mácma hình thành khi dung nham đông nguội trên bề mặt hoặc kết tinh ở dưới sâu. Các đá trầm tích được hình thành từ quá trình lắng đọng vật liệu, rồi nén ép thành đá. Trong khi đá biến chất có thể hình thành từ các loại đá mácma, đá trầm tích hay các loại đá biến chất có trước dưới tác động của nhiệt độ và áp suất.

Đá là một loại vật liệu gắn liền với lịch sử phát triển của loài người. Từ thời đại đồ đá con người đã biết dùng đá để làm vũ khí tự vệ, săn bắn, công cụ sản xuất. Đặc biệt, đá được dùng trong xây dựng những công trình mà ngày nay chúng trở nên nổi tiếng như Kim tự tháp, Angkor Wat, thành Babylon, El-Djem, Colisée, Bourgogne, Épidayre.

2 – Chu trình đá

Chu trình thạch học hay còn gọi là vòng tuần hoàn của đá nằm ở lớp thạch quyển thuộc vỏ Trái Đất. Cũng giống như nước hay nhiều loại hợp chất khác, chúng biến đổi tuần tự theo một chu trình xác định và quay vòng một cách có hệ thống tạo nên vòng tuần hoàn khép kín.

Các đá mácma được kết tinh bên dưới lớp vỏ từ mácma nóng hoặc được đưa lên trên mặt để hình thành đá núi lửa. Các quá trình bóc mòn, phong hóa diễn ra trên bề mặt làm đá vỡ ra được mang đi nơi khác lắng đọng lại ở những môi trường có năng lượng thấp như hồ, biển, vv… Sau khi lắng đọng thường do áp lực của chính bản thân vật liệu làm các vật liệu trầm tích bị cố kết để hình thành nên đá trầm tích.

Một khi các đá trầm tích hoặc mác ma chịu tác động của môi trường có nhiệt độ hoặc áp suất cao hoặc cả hai yếu tố trên làm cho chúng bị biến đổi về cả thành phần và cấu trúc để tạo ra các đá biến chất. Cả ba loại đá này đều có thể bị hút chìm vào bên trong manti ở các đới hút chìm và tan chảy thành mác ma lỏng, và cứ thế quá trình tiếp tục tuần hoàn.

Các đá cũng như thế, chúng cũng biến đổi tuần tự theo những chu trình xác định dưới những điều kiện tác động về hóa lý khác nhau từ môi trường như bị phong hóa, lắng đọng, nóng chảy, kết tinh, đông kết..vv. Ta có thể khởi đầu vòng tuần hoàn từ vật liệu magma có trong lòng đất.

(1) Magma → Đá magma phun trào → Trầm tích → Đá trầm tích → Đá biến chất → magma

(2) Magma → Đá magma xâm nhập → Trầm tích → Đá trầm tích → Đá biến chất → magma

Đây có thể coi là hai vòng tuần hoàn lớn vì ngoài ra còn có các vòng tuần hoàn nhỏ hơn cũng xuất phát từ vật liệu ban đầu là magma. Nhưng những vòng tuần hoàn nhỏ này có đường đi ngắn hơn, bỏ qua một số đá nào đó.

(3) Đá magma → Đá magma phun trào → Đá biến chất → magma

(4) Đá magma → Đá magma xâm nhập → Đá biến chất → magma

(5) Đá biến chất (có thể xuất phát từ thiên thạch)→ Trầm tích → Đá trầm tích → Đá biến chất → magma

(6) Đá trầm tích (có thể xuất phát từ thiên thạch)→ Trầm tích → Đá trầm tích → Đá biến chất → magma

a) Đá mácma

Đá mácma được hình thành từ kết quả nguội lạnh, đông cứng của dung dịch silicat nóng chảy (dung dịch macma) và được chia (theo nguồn gốc thành tạo) làm hai loại macma chính: macma xâm nhập và macma phun trào. Macma này có thể có nguồn gốc từ manti của Trái Đất hoặc từ các loại đá đã tồn tại trước đó bị nóng chảy do các thay đổi nhiệt độ áp suất cực cao. Khoảng 64,7% thể trích vỏ Trái Đất được cấu tạo bởi các đá mácma, trong đó, 66% là basalt và gabro, 16% là granit, và 17% granodiorit và diorit. Chỉ có 0,6% là syenit và 0,3% peridotit và dunit. Vỏ đại dương là 99% basalt, một loại đá có thành phần mafic. Granit và các đá tương tự cấu tạo nên phần lớn vỏ lục địa. Trên 700 loại đá mácma đã được miêu tả lại, phần lớn trong chúng được tạo ra gần bề mặt lớp vỏ Trái Đất. Các loại đá mácma chiếm khoảng 95% toàn bộ phần phía trên của lớp vỏ Trái Đất, nhưng chúng phân bố phổ biến hơn ở bên dưới lớp đá trầm tích và đá biến chất tương đối mỏng nhưng phân bố rộng.

b) Thành phần hóa học & khoáng vật

Người ta dựa vào thần phần hóa học của đá mácma, đặc biệt là silic điôxít (SiO2) để phân ra thành các đá bazo, trung tính và axit. Ngoài ra, việc phân loại theo thành phần hóa có thể gồm siêu maficmafic (tương đương với bazo) hay đá sẫm màu, trung tính và felsic (tương đương với axit) hay đá sáng màu. Xu hướng ngày nay người ta dùng cách gọi mafic, felsic để tránh nhầm lẫn với tính chất axit, bazo trong hóa học. Thuật ngữ felsic được hình thành khi ghép các từ fel của fenspat (tiếng Anh là Felspar) và si của silic. Từ mafic cũng hình thành theo cách tương tự: ma của magiê và f của ferrum (chỉ sắt) trong tiếng Latinh. Các đá felsic là các đá sáng màu do chứa nhiều natri và kali hơn so với các đá mafic. Các đá felsic có nhiệt độ nóng chảy thấp hơn nhưng bền hơn trong điều kiện phong hóa so với đá mafic.

Chuỗi phản ứng Bowen miên tả quá trình mácma nguội lạnh và trình tự kết tinh các khoáng vật để hình thành các loại đá. Chuỗi phản ứng của Boween gồm hai nhánh, nhánh bên phải được gọi là chuỗi phản ứng không liên tục, còn nhánh bên trái được gọi là chuỗi phản ứng liên tục. Nhánh không liên tục bắt đầu kết tinh ở 1200 độ C đứng đầu là olivin – một khoáng vật rất giàu sắt và magie, tiếp theo là pyroxen, amphibol, và biotit. Quá trình kết tinh này làm hàm lượng SiO2 trong phần còn lại của mácma tăng cao. Trong khi đó, nhánh liên tục bên phải bắt đầu là plagioclase giàu canxi có tên gọi là anorthit, từ đây, thành phần canxi của khoáng vật này bị thay thế liên tục bằng natri để tạo ra plagioclase giàu natri-anbit. Tiếp theo muscovit và fenspat giàu SiO2 được kết tinh ở nhiệt độ thấp hơn. Thạch anh là sản phẩm kết tinh cuối cùng trong chuỗi phản ứng trên ở nhiệt độ 750 độ C.

c) Kiến trúc

Đá mác ma có các kiến trúc khác nhau tùy theo môi trường mà chúng thành tạo. Các đá có hạt thô đồng đều là do quá trình nguội lạnh từ từ khi đó các khoáng vật có thời gian để hình thành những tinh thể, loại kiến trúc này được gọi là hiển tinh. Các đá có kiến trúc hiển tinh thường đặc trưng cho môi trường thành tạo dưới mặt đất, như granit, diorit hoặc gabro. Còn các đá nguội lạnh nhanh, các khoáng vật không có thời gian kết tinh như đá núi lửa thường có các kiến trúc ban tinh, vi tinh, ẩn tinh hoặc thủy tinh như ryolit, andesit hay bazan. Đối với các đá có kiến trúc ban tinh, sự xuất hiện các hạt tinh thể to là do chúng được hình thành từ trước dưới sâu và được mang lên trên bề mặt qua quá trình phun trào. Một số loại đá phun trào hình thành nên cấu trúc lỗ hổng hoặc cấu trúc bọt, các cấu trúc này đặc trưng cho các dung nham có chứa nhiều chất bốc (hơi nước, CO2) ở áp suất cao, khi lên đến bề mặt áp suất bị giảm nên pha khí tách ra khỏi pha lỏng, và kết quả là để lại những lỗ rỗng trong khối đá.

??? Tiếp theo: Mời bạn đọc cùng theo dõi bài viết: Tìm hiểu các Đá tự nhiên trong thiên nhiên – Phần 2

Bài viết được phát hành ngày thứ 4, 10/04/2019.

CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG NAMSTONE

Namstone.vn – Giải pháp hoàn hảo cho ngôi nhà của bạn.

Tự hào là một trong những doanh nghiệp uy tín chuyên cung cấp các sản phẩm đá tự nhiên, cho nội thất và ngoại thất với nhiều chủng loại: Granite – Marble – Slate – Sandstone – Bluestone – Basalt.

Hotline: 0914 55 1996

Website: www.namstone.vn

Sự hình thành của Đá tự nhiên

Namstone.vn – Ở phần này, chúng tôi sẽ cung cấp thêm cho bạn đọc những kiến thức cơ bản về sự hình thành của đá tự nhiên trong thiên nhiên.

Đá là tổ hợp có quy luật của các loại khoáng vật, có thể là một thể địa chất có lịch sử hình thành riêng biệt. Cách phân loại tổng quát nhất dựa trên nguồn gốc thành tạo gồm đá macma, đá trầm tích và đá biến chất. Đôi khi thiên thạch được xem là một nhóm đá riêng có nguồn gốc từ vũ trụ.

Sự hình thành của Đá tự nhiên
Sự hình thành của Đá tự nhiên

Với thời gian đời người đá không có sự biến đổi nhưng chúng có thể bị biến đổi bởi các quá trình địa chất diễn ra trong thời gian rất dài. Chu trình thạch học mô tả các giai đoạn mà các loại đá được hình thành và biến chuyển từ dạng này sang dạng khác. Đá mác ma hình thành khi dung nham đông nguội trên bề mặt hoặc kết tinh ở dưới sâu. Các đá trầm tích được hình thành từ quá trình lắng đọng vật liệu, rồi nén ép thành đá. Trong khi đá biến chất có thể hình thành từ các loại đá mácma, đá trầm tích hay các loại đá biến chất có trước dưới tác động của nhiệt độ và áp suất.

Đá là một loại vật liệu gắn liền với lịch sử phát triển của loài người. Từ thời đại đồ đá con người đã biết dùng đá để làm vũ khí tự vệ, săn bắn, công cụ sản xuất. Đặc biệt, đá được dùng trong xây dựng những công trình mà ngày nay chúng trở nên nổi tiếng như Kim tự tháp, Angkor Wat, thành Babylon, El-Djem, Colisée, Bourgogne, Épidayre.

Sự hình thành của đá tự nhiên

Đá là một cơ thể rắn có dạng hình học phổ biến. Đá được tạo ra từ khi trái đất hình thành, và cũng như trái đất, chúng không ngừng biến hóa và thay đổi. Đá chính là DNA của trái đất, một dấu vết hóa học cho sự tiến hóa. Chúng là những nhà kho thu nhỏ, mang chứa lịch sử phát triển hàng triệu năm của trái đất, cũng như gìn giữ bộ nhớ không thể xóa nhòa của những tác động mạnh mẽ tạo nên hình dạng cho chúng. Một số loại đá đã phải chịu những khối áp lực khủng lồ. Một số khác lại hình thành trong những căn hầm sâu dưới lòng đất. Tất cả những điều đó đều ảnh hưởng đến đặc điểm cà tính năng của đá. Tuy nhiên dù đá có ở hình dạng gì đi chăng  nữa, cấu trúc tinh thể của chúng vẫn có khả năng hấp thụ, bảo tồn, tập trung, phát tán năng lượng, đặc biệt là trên các tần số điện từ.

Tinh thể đá

Do các  tạp chất hóa học, phóng xạ, khí thải trái đất và hệ mặt trời cũng như cách hình thành, mỗi loại đá lại có một đặc điểm riêng biệt. Hình thành từ nhiều loại khoáng chất, đá thường được định nghĩa bằng cấu tạo trong, các nguyên tử xắp sếp một cách trật tự và lặp lại tùy theo từng loại. Các loại đá có cùng chủng loại sẽ có cấu tạo trong giống nhau, điều này có thể được nhìn thấy rõ qua kính hiển vi.

Cấu tạo tinh thể độc đáo chính là cách để nhận diện các loại đá, và điều đó cũng có nghĩa là một số loại đá như Aragonite, có một số cấu tạo ngoài và màu sắc mà nếu nhìn thoáng qua thì sẽ không thể nhận ra chúng cùng là một loại đá. Tuy nhiên, do có cấu tạo trong giống nhau, nên chúng được nhóm vào cùng một chủng loại .Chính cấu tạo là điều rất quan trọng trong việc phân loại đá, chứ không phải là khoáng chất hình thành nên chúng. Trong một số trường hợp, thành phần khoáng chất cũng có những khác biệt nhỏ, tạo nên nhiều màu sắc trên một loại đá cụ thể.

Do một số loại đá được hình thành từ một hoặc nhiều loại khoáng chất kết hợp, nên mỗi loại sẽ kết tinh theo một cách khác. Tinh thể thường đối xứng dọc theo một trục. Bề mặt bên ngoài chính là dấu hiệu cho thấy cấu tạo trong của đá. Mỗi mặt đá lại có những cặp góc tương tự. Cấu tạo trong của bất kỳ một loại đá nào cũng bất biến, không thay đổi.

Đá có cấu tạo của bảy dạng hình học: Hình tam giác, hình vuông, hình chữ nhật, hình lục giác, hình thoi, hình bình hành, hình thang. Nhiều loại đá mang những dạng hình học kể trên, và có tên dựa trên dạng hình học bên trong. Cũng giống như tên gọi của mình, đá có hình lục giác được tạo nên từ những hình lục giác ba chiều, tinh thể vuông tạo thành một khối đá vuông, tinh thể tam giác tạo đá hình tam giác, Tuy nhiên, hình dạng bên ngoài của đá cũng không nhất thiết phải phản ánh cấu tạo trong của loại đá đó.

Trái tim của đá là nguyên tử và những bộ phận cấu thành. Nguyên tử luôn chuyển động linh hoạt, chưa các phân tử liên tục xoay quanh trung tâm. Bởi vậy, mặc dù đá thường sở hữu vẻ ngoài tĩnh, nhưng bên trong lại chứa những phân tử luôn luôn chuyển động không ngừng. Đó chính là điều truyền năng lượng cho đá.

Vỏ trái đất

Trái đất bắt đầu từ một đám mây ga không ngừng chuyển động. Dần dần, qua nhiều thiên niên kỷ, dung nham nguội dần trở thành lớp vỏ Trái đất. Lúc này, vỏ Trái đất chỉ có độ dày như vỏ một trái táo. Bên trong lớp vỏ ấy, chất dung nham nóng bỏng, giàu khoáng sản vẫn tiếp tục nóng lên và sục sôi. Nhờ đó, các loại đá bắt đầu hình thành.

Sự hình thành của Đá tự nhiên
Sự hình thành của Đá tự nhiên

Một số loại đá,  chẳng hạn như thạch anh, sinh ra từ chất cháy và khoáng chất nóng chảy ở trung tâm trái đất. Sau khi bị nung nóng ở mức tối đa, chúng sẽ trồi lên bề mặt trái đất. Khi khí gas thâm nhập vào lớp vỏ trái đất và tiếp xúc với đá cứng, chúng sẽ dịu đi và đông đặc, đây là quá trình có thể diễn ra trong nhiều thiên niên kỷ hoặc có thể diễn ra trong khoảng thời gian vô cùng ngắn.

Nếu quá trình diễn ra tương đối chậm, hoặc nếu đá phát triển trong một bong bóng khí, thì những viên đá lớn có thể phát triển. Nếu quá trình diễn ra nhanh chóng, các viên đá sẽ nhỏ. Nếu quá trình ấy kết thúc rồi lại bắt đầu, các đặc tính tự chữa lành hoặc “phantom” sẽ xuất hiện. Nếu quá trình ấy diễn ra đặc biệt mau chóng, một loại chất trong như thủy tinh, chẳng hạn như Obsidian sẽ được hình thành. Các loại đá như Aventurine hoặc Peridot hình thành từ dung nham nhiệt độ cao. Những loại khác, chẳng hạn như Topaz và Tourmaline, được tạo nên khi khí gas thâm nhập vào những loại đá tiếp giáp.

Tuy nhiên, các hình thức khác phát sinh khi dung nham đủ nguội để hơi nước ngưng tụ thành chất lỏng. Dung dịch này là cơ sở để Aragonite và Kunzite hình thành. Khi nó thâm nhập vào khe nứt xung quanh đá, dung dịch này từ từ làm mát, tạo ra những loại đá lớn và hốc tinh như Chalcedony và Amethyst.

Các loại đá như Garnet được tạo ra từ sâu dưới lòng đất, khi các khoáng chất tan chảy  và kết tinh lại dưới áp xuất lớn và nhiệt độ khổng lồ. Những loại đá này được gọi là đá biến chất vì chúng đã phải trải qua sự biến đổi hóa học, tái tạo lại tinh tể gốc.

Canxit hay các lớp trầm tích hình thành từ xự xói mòn. Đá ở bề mặt trái đất bị phá vỡ và khoáng hóa tạo thành những dòng chảy, sau một thời gian sẽ tạo nên những loại đá mới. Chúng cũng có thể cộng sinh với nhau, có thể rất cứng hoặc cũng có thể rất mềm. Hoặc cũng có thể dính chặt với một cá thể “đá chủ” khác.

Phần lớn các tinh thể đều dính liền với một loại đá chủ nào đó. Việc khai thác thường đi kèm với quá trình cắt, tách rời khỏi đá chủ.

CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG NAMSTONE

Namstone.vn – Giải pháp hoàn hảo cho ngôi nhà của bạn.

Tự hào là một trong những doanh nghiệp uy tín chuyên cung cấp các sản phẩm đá tự nhiên, cho nội thất và ngoại thất với nhiều chủng loại: Granite – Marble – Slate – Sandstone – Bluestone – Basalt.

Hotline: 0914 55 1996. Để được tư vấn miễn phí.

5 bí quyết duy trì vẻ đẹp của đá tự nhiên

– Thứ nhất, khi sử dụng đá tự nhiên người sử dụng cần thực hiện đúng hướng dẫn sử dụng của nhà cung cấp sản phẩm và dịch vụ thi công đá tự nhiên. Ví dụ như cần thực hiện việc làm sạch các vết bẩn bằng sản phẩm làm sạch phù hợp ngay khi chúng xuất hiện (các vết bẩn do dầu mỡ, cà phê, trà, thực phẩm, mỹ phẩm, mực bút bi, bút máy, sơn, nấm mốc, địa y…), thực hiện đánh bóng định kỳ.
– Thứ hai, chất lượng thi công đá tự nhiên và chất lượng sản phẩm đá tự nhiên cần đạt yêu cầu. Ví dụ: đá phải được chống thấm tốt trước khi thi công, sử dụng loại đá tự nhiên phù hợp với hạng mục công trình. Đây là yếu tố ảnh hưởng lớn tới chất lượng cuối cùng của mỗi hạng mục đá tự nhiên. Vì vậy, việc đánh giá và lựa chọn nhà cung cấp sản phẩm và dịch vụ thi công đá tự nhiên uy tín là bước quan trọng đầu tiên để đạt được các yêu cầu chất lượng, thẩm mỹ của công trình.

Để đảm bảo duy trì vẻ đẹp của đá tự nhiên cần xử lý đúng quy trình, kỹ thuật.
– Thứ ba, các chủ công trình, chủ đầu tư cần quan tâm tới vấn đề chăm sóc bảo dưỡng đá tự nhiên. Vì vậy, hầu như các hạng mục đá cần được chăm sóc, bảo dưỡng theo đúng kỹ thuật chứ không đơn thuần là vệ sinh thông thường.

– Thứ tư, tìm hiểu chuyên sâu về đá tự nhiên để có những cách xử lý, bảo dưỡng phù hợp, tránh tình trạng xử lý sai làm giảm vẻ đẹp của đá hay gây khó khăn hơn cho việc xử lý sau này.

– Thứ năm, có một số trường hợp đá bị, bẩn do tính chất tự nhiên của đá hoặc đá bị vôi hóa do nước chứa muối khoáng trên bề mặt đá, khi nước bốc hơi để lại các vệt màu vàng, nếu để lâu ngày sẽ thành vết ố vàng, rất khó làm sạch. Vì vậy đối với những trường hợp như trên, người sử dụng cần xử lý nhanh, chính xác nhất có thể.

Nhận biết sản phẩm đá tự nhiên

GRANITE

  • l Granite còn gọi là đá hoa cương xuất phát từ tiếng Latinh là Granum, có nghĩa là hạt để nói đến cấu trúc hạt thô của đá kết tinh. Được hình thành từ chất lỏng Magma, đó chính là nham thạch chảy ra từ lòng trái đất, nguội dần trở thành một loại chất có thể  đạt tới độ bền và cứng như kim cương,

MARBLE

  • Đá marble (đá cẩm thạch) là một loại đá biến chất từ đá vôi, có cấu tạo không phân phiến, được hình thành từ sự biến chất của những khối đá vôi (do quá trình thay đổi nhiệt độ, áp suất và những điều kiện khác) tạo ra sự kết tinh của khoáng chất canxi và các tinh thể đolomit. Đá Marble có các vân hoa màu sắc khác nhau là do sự kết hợp của các thành phần: đất sét, cát , than bùn, xilic, các loại oxit sắt, và các chất khác cấu thành.

LIMESTONE

  • Limestone là loại đá đặc biệt đươc hình thành từ cá vùng biển,đây là một loại đá trầm tích chứa nhiều khoáng chất canxi từ nhiều mảnh xương của những sinh vật biển như ốc,sò,san hô.Limestone được sử dụng rất phổ biến trong kiến trúc Bắc Mỹ và Châu âu…

ONYX

  • Onyx là loại đá thuộc dòng thạch anh, kết hợp từ nước và quá trình phân rã của đá vôi,cùng với sự chuyển hóa liên tục trong lòng đất tạo thành 1 loại đá mới như  “đá túyp”.Không giống như bất kỳ loại đá nào Onyx có đặc tính mềm,có bề mặt trông như sáp,khả năng xuyên sáng và có vẻ đẹp sang trọng.Onyx có thể được tìm thấy ở những dãy núi lớn có nhiều lớp màu sắc khác nhau…

TRAVERTINE

 –  Travertine là dạng vật chất giữa 2 loại Mable và Limestone hay cũng thuộc loại đá vôi.Travertine là vật liệu được hình thành hàng nghìn năm từ nhiều lớp chất (trầm tích) được nằm sâu trong lòng đất ở những con sông, suối và những mạch nước ngầm đầu nguồn Đặc tính cơ bản của đá này có khả năng chống chịu cao,không bị biến dạng, có những lỗ hổng giống như tổ ong và tính chất mềm mịn và phù hợp với mọi mục đích sử dụng.Travertine đang được khai thác phổ biến tại Italy.Thổ Nhĩ Kỳ và những vùng lân cận …

BASALT

  • Đá basalt là loại đá phun trào mafic, có hàm lượng oxit silic dưới 52%, thành phần hoá học tương ứng với đá xâm nhập gabro, màu sẫm, thành phần khoáng vật gồm labrađo, piroxen, olivin. Basalt tạo nên những lớp phủ rộng lớn ở Việt Nam, nhất là ở Tây Nguyên và Nam Bộ. Sự phong hoá của đá basalt đã dẫn tới sự thành tạo đất đỏ, đất đỏ nâu màu mỡ hoặc quặng bauxit. Đá basalt đun nóng chảy có thể kéo sợi làm bông thuỷ tinh, hoặc đúc làm vật liệu chịu axit.

SANDSTONE

  • Còn gọi là đá cát kết, tên cũ là đá sa thạch. Là đá trầm tích vụn cơ học, do các hạt cát gắn kết lại với nhau bởi xi măng, canxi, oxit sắt,vv. Tùy theo từng loại xi măng mà đá Sandstone có màu sáng, xám, lục đỏ, …Sandstone dùng làm cối đá, làm đá xây dựng…

 

Lịch sử hình thành của đá tự nhiên

Đá là dạng đặc hình thành tự nhiên từ một hoặc nhiều loại khoáng chất. Có hàng nghìn loại đá đã được khai thác qua các thế kỷ từ các mỏ nằm khắp thế giới. Phần lớn đá thiên nhiên được khai thác ở  Ý, Tây Ban Nha, Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ,Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp, Đài Loan, Canada, Pháp, Mỹ, Mehico…

Các khoáng chất trong đá là từ cùng một chất lỏng và khí ga hình thành trái đất. Trái đất định hình do nó có lượng ga và khoáng chất lỏng nguội lạnh từ từ và hình thành các nhân đặc.

Dưới áp suất, vỏ trái đất được hình thành và các khoáng chất nặng bị nén xuống nhân quả đất và bị mắc kẹt ở đó. Khi vỏ trái đất dày lên, các khoáng chất bị ép chặt quanh các nhân được hình thành từ áp suất và nhiệt trong lòng trái đất. Các tinh thể và các hình dạng đặc khác bắt đầu bốc hơi. Khi vỏ trái đất co dãn và bị mài mòn, nhiệt độ và áp suất đẩy các khoáng chất đặc lên bề mặt và hình thành các vỉa đá lớn. Để hình thành những vỉa đá như thế này cần đến một trăm triệu năm và rất nhiều các vỉa đá đã như vậy và đang được khai thác.

Hầu hết các khoáng chất này được nhận biết qua màu sắc, độ cứng và cấu tạo tinh thể. Các tinh thể có rất nhiều hình dạng và kích cỡ nên rất khó để nhận biết. Có rất nhiều loại đá trông rất giống nhau nhưng thực ra chúng rất khác nhau.

Để bảo trì cần phải biết chính xác loại đá đó. Đá là sản phẩm của tự nhiên và có thể có các phản ứng ngược đối với các phương pháp và các loại hoá chất tẩy rửa. Hầu hết các loại đá là chất có tính kiềm trong tự nhiên, tương tự như là bụi bặm hay đất bẩn. Do đó, đá và các chất bẩn thường dính chặt với nhau nên rất khó để vệ sinh. Điều này làm cho việc chọn các phương pháp và các hoá chất tẩy rửa rất khó khăn và phức tạp.